Cửa hàng đồng giá – cánh tay của các chuỗi siêu thị
Thực tế, mô hình cửa hàng đồng giá đã bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2006. Vị trí trung tâm thành phố, gần trường học là nơi tập trung của nhiều cửa hàng dạng này. Mức giá 5.000-10.000 đồng khi đó có thể cho phép giới học sinh sắm được bút và vở viết. Phụ nữ cũng là khách hàng đóng góp lượng doanh thu cho cửa hàng đồng giá vì họ thường mua kẹp, dây buộc tóc.
Hàng loạt cửa hàng mọc lên ở nhiều tuyến phố, mô hình đồng giá đã thực sự bùng nổ vào năm 2013. Nhưng khi thị trường đồng giá trở nên chật chội, lượng khách mua không tăng lên tương ứng đã khiến nhiều chủ cửa hàng phải chấp nhận đóng cửa. Trong số ít cái tên còn lại, Daiso và Komonoya là 2 thương hiệu nổi bật khi vẫn tiếp tục mở rộng hệ thống ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Daiso, người tiêu dùng có thể tìm thấy phụ kiện làm đẹp, đồ gia dụng, đồ làm vườn, văn phòng phẩm,... Tất cả các sản phẩm đều có nhãn phụ ghi dòng chữ “PP bởi: Cty TNHH Aeon Việt Nam”. Điều này cũng thể hiện rằng chuỗi cửa hàng đồng giá Daiso là một phần trong cuộc chiến giành thị phần bán lẻ là Aeon đang tham dự.
Cách không xa Daiso là cửa hàng đồng giá Komonoya. Đa số khách hàng được hỏi đều nghĩ rằng hai thương hiệu này cùng của doanh nghiệp tới từ Nhật Bản. Nhưng đơn vị quản lý nhượng quyền Komonoya là Tập đoàn Central Group (Thái Lan). Sau khi liên tiếp thâu tóm chuỗi siêu thị BigC (ngành hàng bách hóa) và Nguyễn Kim (ngành hàng điện máy), Central Group đã đưa về Việt Nam thương hiệu Komonoya để trực tiếp cạnh tranh với Daiso trong mô hình chuỗi cửa hàng đồng giá.
Daiso và Komonoya có tới hàng nghìn chủng loại sản phẩm ở mỗi cửa hàng đồng giá của họ. Tất cả đều được bán với mức giá 40.000 đồng. Các sản phẩm này thuộc các nhóm phụ kiện làm đẹp, vật dụng trang trí, đồ làm bếp, làm vườn, văn phòng phẩm,...
Tuy nhiên, khách hàng khó có thể nhầm lẫn giữa 2 cửa hàng đồng giá. Không chỉ khác nhau về màu sắc nhận diện, sản phẩm điểm nhấn của Komonoya và Daiso cũng tỏ ra khác biệt rõ rệt. Trong khi lối vào Komonoya là các sản phẩm gia dụng thì phía Daiso trưng bày phụ kiện làm đẹp ở vị trí dễ nhìn thấy nhất.
Xuất xứ hàng hóa của Daiso và Komonoya cũng khác nhau. Theo những nhãn phụ đi kèm, có nhiều công ty tham gia vào các khâu sản xuất, nhập khẩu và phân phối sản phẩm. Một số các mặt hàng ở Daiso được sản xuất trong nước. Theo Daiso Việt Nam, 30-40% sản phẩm trong chuỗi có xuất xứ từ Nhật Bản. Số còn lại sản xuất ở Việt Nam và Trung Quốc.
Trả lời báo chí, bà Nguyễn Thùy Trang, Giám đốc Điều hành Daiso Việt Nam cho biết Daiso có khả năng phát triển nhờ vào việc thu lợi nhuận từ số lượng tiêu thụ lớn. Theo bà Trang, việc kinh doanh hàng đồng giá tại Việt Nam cần tính toán rất kỹ lưỡng về tỉ lệ hàng hóa như thế nào là hợp lý. “Phải xem xét thực tế để quyết định tỉ lệ phù hợp tại thị trường Việt Nam là lỗ 10% để lãi 90% hay bao nhiêu?” – bà Trang lấy ví dụ.
Một cách đơn giản, có thể hiểu ý nghĩa của ví dụ do bà Trang đưa ra như sau. Có khoảng 10% lượng hàng có giá trị bằng hoặc lớn hơn giá bán ra, và 90% những mặt hàng có giá thấp hơn trong cửa hàng đồng giá. Chủ cửa hàng đồng giá thường thu lợi nhuận từ 90% lượng hàng hóa bán ra để chấp nhận lỗ một khoản nhất định trên 10% lượng hàng hóa có giá cao hơn.
Trước đó, ông Robert Trần, Tổng Giám đốc Tập đoàn Tư vấn Chiến lược Robenny khu vực Mỹ và Châu Á Thái Bình Dương nhận xét, muốn có lợi nhuận từ mô hình kinh doanh đồng giá phải đạt số lượng cửa hàng lớn gấp đôi hoặc gấp ba lần so với các nước, tức phát triển ở mức hàng trăm cửa hàng.
Hiện tại, chỉ mới có 6 cửa hàng Daiso, còn số cửa hàng của Komonoya là 16. Cả hai cũng đều đang đẩy mạnh thiết lập các gian hàng nhỏ hơn trong một số siêu thị như Lotte, BigC,... Mạng lưới cửa hàng, điểm phân phối đang được các bên dần phát triển.
Trong lúc đó, khách hàng của cửa hàng đồng giá Daiso vẫn chậm dãi xem xét từng món hàng trước khi bỏ vào giỏ. Họ cho rằng số tiền 40.000 đồng là cao hơn nhiều so với việc mua sản phẩm tương tự ở các kênh phân phối truyền thống. Chỉ những đứa trẻ là tiếp tục vui chơi trong cửa hàng đồng giá.